BÌNH LUẬN ĐIỀU 174 BLHS TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

BÌNH LUẬN ĐIỀU 174 BLHS TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

11

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong số những tội phạm phổ biến trong nhóm tội xâm phạm đến quyền sở hữu đã được quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự. Đặc trưng của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối. Nếu chỉ có thủ đoạn gian dối nhưng không có ý định chiếm đoạt tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà tùy trường hợp cụ thể, người thực hiện hành vi có thể bị truy cứu TNHS về tội phạm khác hoặc chỉ là quan hệ dân sự, kinh tế.

Sau đây HTM & Partner xin được bình luận về tội danh này như sau:


Lừa Đảo Chiếm Đoạt Tài Sản
Lừa Đảo Chiếm Đoạt Tài Sản

I. Căn cứ pháp lý

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi bổ sung năm 2017), như sau:

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

II. Các yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Chủ thể thực hiện tội phạm:

Chủ thể của tội phạm này là người từ đủ 16 trở lên. Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm không phải là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tức là nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ có người trên 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

2. Khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này này được thể hiện trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt.

3. Mặt khách quan của tội phạm:

3.1 Hành vi khách quan:

Do đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Thủ đoạn gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, không có thủ đoạn thuộc về tư tưởng, suy nghĩ của người phạm tội lại không được biểu hiện ra bên ngoài bằng hành vi, cũng chính vì thế mà khi phân tích các dấu hiệu khách quan cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản một số quan điểm cho rằng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hai hành vi khách quan là hành vi “gian dối” và hành vi “chiếm đoạt”, nói như thế cũng không phải là không có căn cứ.
Tuy nhiên, điều văn của điều luật quy định: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác…” nên không thể coi thủ đoạn phạm tội là một hành vi khách quan được vì thủ đoạn chính là phương thức để đạt mục đích mà biểu hiện của thủ đoạn gian dối lại bao gồm nhiều hành vi khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể khác mà người phạm tội thực hiện hành vi đó nhằm đánh lừa người khác.

 Ví dụ: A nói dối với B là mẹ của A ốm phải đưa vào bệnh viện cấp cứu; B tin và đưa xe máy cho A để A đưa mẹ đi cấp cứu. A đem xe ra tiệm cầm đồ cầm cố lấy 10.000.000 đồng, sử dụng đánh bạc thua hết. Nhưng trong một hoàn cảnh khác, A không nói dối với B là mẹ của mình bị bệnh mà lại nói dối với B là mựơn xe chở bạn gái về rồi đem cầm cố lấy tiền đánh bạc. Như vậy việc người phạm tội có hành vi cụ thể nào để đánh lừa được người khác là phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và do người phạm tội lựa chọn sao cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin mà tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội.

Đặc điểm nổi bật của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn gian dối của người phạm tội phải có trước hành vi chiếm đoạt và là nguyên nhân trực tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản cho người phạm tội. Thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao giờ cũng phải có trước khi việc giao tài sản giữa người bị hại với người phạm tội thì mới là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu thủ đoạn gian dối có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tùy trường hợp cụ thể, thủ đoạn gian dối đó có thể là hành vi che giấu tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác như tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Để lừa được chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, người phạm tội sử dụng nhiều cách khác nhau như: bằng lời nói dối, giả mạo giấy tờ, giả danh người có chức vụ quyền hạn, giả danh các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội để thông qua việc ký kết hợp đồng… Thực tế để xác định hành vi gian dối, thường căn cứ vào các chứng từ, tài liệu, giấy tờ giả (như Hợp đồng mua bán, Giấy chứng nhận sở hữu nhà, đất, giấy vay tiền…) mà đối tượng dùng để tạo niềm tin cho chủ tài sản, làm cho chủ tài sản tin để giao tài sản để xác định.

Ví dụ: Trong các vụ án lừa đảo Ngân hàng, đối tượng phạm tội thường xây dựng phương án kinh doanh khống, làm giả hồ sơ tài sản thế chấp…để được vay vốn sau đó chiếm đoạt mà không có khả năng trả nợ.

Đây cũng là đặc điểm để phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Người lừa đảo chiếm đoạt tài sản sử dụng thủ đoạn gian dối gây lòng tin đối với chủ tài sản, làm chủ tài sản tin tưởng người phạm tội mà trao tài sản cho họ. Để chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội lừa đảo phải dùng thủ đoạn gian dối trước. Chính thủ đoạn gian dối là nguyên nhân làm người có tài sản tin tưởng mà trao tài sản.

Người lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn khác với người lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mặc dù sự chiếm đoạt tài sản có tính chất gian dối. Người lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bằng cách vay, mượn, thuê, hợp đồng với chủ tài sản để chủ tài sản giao tài sản. Họ nhận được tài sản từ chủ tài sản một cách hợp pháp, ngay thẳng. Sau khi nhận được tài sản người phạm tội mới thực hiện hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản ấy. Sự gian dối chiếm đoạt tài sản sảy ra sau khi nhận được tài sản nên lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là bội tín (phản bội lòng tin) của chủ tài sản.

Một đặc điểm khác của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là khi bị lừa, người bị hại tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội và họ cho rằng việc giao tài sản cho người phạm tội như vậy là hợp pháp và ngay thẳng. Tức là người bị hại tin giả là thật mà giao tài sản cho người phạm tội.

Thực tiễn xét xử còn nhiều trường hợp cũng có hành vi là thủ đoạn gian dối, cũng có hành vi chiếm đoạt, nhưng hành vi này đã được Bộ luật hình sự quy định thành tội phạm độc lập thì cũng không bị truy cứu TNHS về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị truy cứu về tội phạm tương ứng khác như: hành vi làm hàng giả, buôn bán hàng giả để đánh lừa người tiêu dùng là hành vi phạm tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả; hành vi lừa đảo chiếm đoạt các chất ma tuý là hành vi phạm tội chiếm đoạt chất ma tuý; hành vi lừa đảo chiếm đoạt vũ khí là hành vi phạm tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng.v.v…

Một điểm cần lưu ý là, trước khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội thường tìm kiếm, phát hiện những cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức có tài sản. Tiếp đó, tùy theo điều kiện, hoàn cảnh, đặc điểm nơi quản lý tài sản mà tội phạm sẽ thực hiện các thủ đoạn gian dối như chuẩn bị các giấy tờ giả, hợp đồng giả, nghĩ cách tiếp cận bị hại. Để có cách tiếp xúc phù hợp, nhanh chóng gây được lòng tin với người bị hại, người phạm tội thường dùng lời nói kết hợp với giấy tờ, đồ vật, hàng hóa giả để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, việc xác định đúng bị hại, đối tượng chiếm đoạt, thời điểm chiếm đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tội danh.

Ví dụĐối với các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hình thức huy động vốn đa cấp thì một cá nhân có thể vừa là bị hại vừa là tội phạm…

Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi thỏa mãn một trong các dấu hiệu sau (đây là cấu thành cơ bản, tức khoản 1, thuộc tội phạm ít nghiêm trọng):

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trị giá từ 02 triệu đồng trở lên: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định theo giá trị thị trường của tài sản đó tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm.

Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu TNHS đối với người đó.

Trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi lừa đảo CĐTS có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm đến giá trị tài sản bị xâm phạm (giá trị bao nhiêu cũng được), thì lấy giá thị trường của tài sản bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó.

Ví dụ: lừa đảo chiếm đoạt sợi dây chuyền vàng đem bán thì mới biết là vàng giả thì vẫn bị truy cứu TNHS về tội lừa đảo CĐTS.

Nếu giá trị tài sản dưới 02 triệu đồng thì phải thuộc một trong các trường hợp:

  • a) Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản (có thể là hành vi trộm cắp tài sản hoặc hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc hành vi chiếm đoạt khác) mà còn vi phạm.

Ví dụ: 

  • b) Đã bị kết án về tội lừa đảo CĐTS hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168 (Tội Cướp tài sản), 169 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), 170 (Tội cưỡng đoạt tài sản), 171 (Tội cướp giật tài sản), 172 (Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản), 173 (Tội trộm cắp tài sản), 175 (Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ) và 290 (Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản) của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

Ví dụ: 

  • c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: là gây ra những tác động xấu đến tình hình an ninh, tác động tiêu cực đến trật tự, an toàn xã hội mà cụ thể là gây hoang mang, lo sợ hoặc phẫn nộ trong nhân dân; gây khó khăn trong việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Khi áp dụng tình tiết này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Ví dụ: Đối tượng liên tục thực hiện những vụ lừa đảo nhắm vào những người già để chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn của họ, gây phẫn nộ cho người dân về tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.

  • d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. Việc xác định tài sản trộm cắp là phương tiện sống chính của người bị hại và gia đình thì tài sản đó phải là tài sản đặc biệt quan trọng, là chỗ dựa, phương tiện mưu sinh duy nhất của người bị hại và gia đình mà nếu mất đi tài sản đó thì người bị hại và gia đình lâm vào tình trạng khó khăn.

Ví dụ: Bị lừa lấy mất chiếc xe máy dùng để chở khách và tiền thu được từ việc chở khách là khoản thu chính của gia đình;

Ngoài ra theo hướng dẫn tại Mục I.3 của Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao thì: Trường hợp một người nhiều lần thực hiện hành vi lừa đảo CĐTS, nhưng mỗi lần trị giá tài sản bị xâm phạm dưới 2 triệu đồng và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu TNHS, đồng thời trong các hành vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng trị giá tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên 2 triệu đồng, thì người đó phải bị truy cứu TNHS về tội lừa đảo CĐTS, nếu các hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.

3.2 Hậu quả và mối quan hệ nhân quả:

Hậu quả của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 168 (Cướp tài sản), 169 (Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), 170 (Cưỡng đoạt tài sản), 171 (Cướp giật tài sản), 172 (Công nhiên chiếm đoạt tài sản), 173 (Trộm cắp tài sản), 175 (Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản) và 290 (Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản) của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc gây ảnh hưởng xấu đến ANTT, an toàn xã hội hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. Nhưng không vì thế mà cho rằng, phải có thiệt hại về tài sản (người phạm tội chiếm đoạt được tài sản) thì mới cấu thành tội phạm.

Đối với những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc rất lớn như ôtô, xe máy, máy tính xách tay, đồng hồ đắt tiền hoặc tài sản khác có giá trị hàng chục triệu đồng trở lên, thì dù người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản vẫn bị coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, là phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm tội tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

4. Mặt chủ quan của tội phạm:

Người phạm tội cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Tội này không thể diễn ra dưới hình thức lỗi vô ý. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có tính chất chiếm đoạt, do lỗi cố ý của chủ thể, mục đích là mong muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của người bị hại.

Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu sau khi đã có tài sản một cách hợp pháp, ngay thẳng rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản thì không phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tùy trường hợp cụ thể, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác như tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Thực tế việc chứng minh ý thức chiếm đoạt của người phạm tội thường căn cứ vào tài sản thực có, tình trạng tài chính, nhu cầu tài sản của người phạm tội kết hợp với lời khai nhận của người phạm tội như thế nào. Thông thường trước khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội bị rơi vào hoàn cảnh nợ nần do thua cờ, bạc, lô đề, kinh doanh…, không có khả năng trả nợ cho chủ nợ nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản.

III. Về hình phạt:

1. Hình phạt chính đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 

Mức hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chia thành bốn khung, cụ thể như sau:

1. Khoản 1 (tội phạm ít nghiêm trọng): Có mức hình phạt là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách quan (đã phân tích ở trên).

2. Khoản 2 (tội phạm nghiêm trọng): Có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Được áp dụng đối vối một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

  • a) Có tổ chức: là trường hợp có từ hai người trở lên cố ý cùng tham gia phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và có sự thống nhất với nhau về ý chí, cố ý cùng bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện tội phạm, dưới sự điều khiển của người đứng đầu. Tuy nhiên, không có sự lượng hóa cụ thể đối với sự câu kết, bàn bạc của những người phạm tội trong phạm tội có tổ chức, sự phân công nhiệm vụ, vai trò của những người đồng phạm. Trong đó, mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu;
  • b) Có tính chất chuyên nghiệp: Hiện chưa có quy định thế nào là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Tuy nhiên tại điểm 3 Điều 5 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 324 BLHS 2015 về tội rửa tiền thì tình tiết “Có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 324 BLHS 2015 là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi rửa tiền từ 05 lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội lấy khoản lợi bất chính thu được từ việc rửa tiền làm nguồn thu nhập;
  • c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
  • d) Tái phạm nguy hiểm: Theo quy định tại khoản 2 Điều 53 BLHS thì người phạm tội lừa đảo CĐTS bị coi là tái phạm nguy hiểm nếu: 1. Đã bị kết án về tội lừa đảo CĐTS (theo khoản 3, 4 Điều 174 BLHS), chưa được xoá án tích mà lại phạm tội lừa đảo CĐTS (theo khoản 3, 4 Điều 174); 2. Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội lừa đảo CĐTS.
  • đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
  • e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt: “Dùng thủ đoạn xảo quyệt” là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn dối trá một cách tinh vi, sử dụng công nghệ cao để thực hiện hành vi phạm tội, che giấu tội phạm, đổ tội cho người khác hoặc người phạm tội có hành vi tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm.

3. Khoản 3 (tội phạm rất nghiêm trọng): Có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

  • a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
  • b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh: là trường hợp người phạm tội lợi dụng vào hoàn cảnh thiên tai, dịch bệnh để thực hiện hành vi phạm tội lừa đảo CĐTS. Tình tiết này được áp dụng không phụ thuộc vào phạm vi, mức độ của thiên tai, dịch bệnh hoặc tính chất, mức độ của những khó khăn khác của xã hội trong tình trạng thiên tai, dịch bệnh.

4. Khoản 4 (tội phạm đặc biệt nghiêm trọng): Có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau:

  • a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
  • b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp: Tình trạng chiến tranh là trạng thái xã hội đặc biệt của đất nước được tuyên bố trong thời gian từ khi nước nhà bị xâm lược cho tới khi hành động xâm lược đó được chấm dứt trên thực tế. Tình trạng khẩn cấp về quốc phòng là trạng thái xã hội của đất nước khi có nguy cơ trực tiếp bị xâm lược hoặc đã xảy ra hành động vũ trang xâm lược hoặc bạo loạn nhưng chưa đến mức tuyên bố tình trạng chiến tranh. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để phạm tội lừa đảo CĐTS là trường hợp người phạm tội dựa vào các hoàn cảnh nêu trên để thực hiện tội phạm. Mức độ nguy hiểm của hành vi lừa đảo CĐTS trong trường hợp này phụ thuộc vào tính chất của hoàn cảnh chiến tranh; tính chất, mức độ của tình trạng khẩn cấp.

2. Hình phạt bổ sung đối với tội lừa đảo CĐTS

Ngoài việc phải chịu một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể, người phạm tội lừa đảo CĐTS còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

IV. Về xử lý hành chính, dân sự đối với hành vi lừa đảo CĐTS

1. Về xử phạt vi phạm hành chính

Trong trường hợp hành vi lừa đảo chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì hành vi này có thể bị xử phạt vi phạm hành chính.

Theo quy định tại điểm c Khoản 1 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình, hành vi Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” sẽ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.

2. Về chế tài dân sự

Người có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Việc bồi thường thiệt hại này được thực hiện theo quy định của Chương XX Bộ luật Dân sự 2015 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

V. Thực tiễn của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở nước ta

Trong những năm vừa qua, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở nước ta đã trở nên báo động và khá nghiêm trọng. Tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ gây thiệt hại về tài sản cho Nhà nước, xã hội và công dân mà còn ảnh hưởng rất lớn đến tình hình an ninh và trật tự xã hội. Những năm vừa qua, ngành Tòa án đã đưa ra xét xử nhiều vụ đại án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như: vụ án Huỳnh Thị Huyền Như lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhiều ngân hàng và nhiều cá nhân với tổng số tiền lên tới hơn 4.900 tỷ đồng; vụ án Lê Xuân Giang, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty liên kết Việt và đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt 2.000 tỷ đồng của 60.000 người; vụ Chu Minh Ngọc, Giám đốc Công ty Cimco cùng đồng bọn lập khống hồ sơ mua bán thép để hợp thức hồ sơ vay vốn lừa đảo chiếm đoạt 1.124 tỷ đồng của 7 ngân hàng; vụ Phan Bá Tòng, Giám đốc Công ty TNHH xuất nhập khẩu thủy sản Thiên Mã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt 700 tỷ đồng của các ngân hàng và khách hàng; vụ Công ty Cổ phần thương mại đầu tư Phúc Gia Bảo lừa đảo chiếm đoạt 178 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin thì tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam có xu hướng phát triển mạnh, tăng về cả số lượng, mức độ nguy hiểm và hậu quả thiệt hại. Tình trạng mất an ninh, an toàn mạng diễn ra phổ biến ở các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân sử dụng máy tính. Hàng năm có hàng nghìn vụ việc tội phạm sử dụng  máy tính mạng, mạng viễn thông và phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng. Với đặc điểm là một loại tội phạm mới, sử dụng công nghệ thông tin, viễn thông làm công cụ, phương tiện phạm tội thì việc nhận diện được phương thức thủ đoạn của loại tội phạm này đã và đang gặp nhiều khó khăn. Thủ đoạn của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày càng tinh vi, xảo quyệt, số vụ án về loại tội phạm này được đưa ra xét xử ngày càng tăng, đặc biệt là những thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…Chỉ tính riêng thành phố Hà Nội, theo báo cáo tổng kết công tác năm 2017, lực lượng cảnh sát kinh tế – Công an thành phố Hà Nội đã phát hiện, điều tra 1.048 vụ án về kinh tế, 90 vụ xâm phạm sở hữu tài sản. Trong đó, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 65 vụ (chiếm 72,22 tổng số vụ xâm phạm sở hữu tài sản), 89 đối tượng, thiệt hại tài sản 22.555 triệu đồng (Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 của Phòng Cảnh sát kinh tế – Công an TP Hà Nội).

Thủ đoạn hoạt động của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thể hiện trong một số lĩnh vực như:

Thứ nhất, lừa đảo trong lĩnh vực ngân hàng

Một là, đối với đối tượng ngoài ngành ngân hàng, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản thường sử dụng các thủ đoạn:

  • Thế chấp khống hàng hóa với khối lượng lớn tuy thực chất chỉ có một ít hàng; lập hợp đồng kinh tế khống, hợp đồng thuê kho ba bên khống, hóa đơn VAT khống, hóa đơn VAT giả… trường hợp này thường có sự tiếp tay của cán bộ ngân hàng, sau khi thế chấp vay được tiền đối tượng sẽ chiếm đoạt khoản tiền đó;
  • Thế chấp ngân hàng bằng hàng hóa hình thành từ vốn vay, ngân hàng giám sát không chặt chẽ để khách hàng bán tài sản nhưng không trả nợ;
  • Lập hồ sơ, phương án kinh doanh giả, sử dụng tài sản thế chấp không thuộc quyền sở hữu của mình để móc nối vay tiền ngân hàng;
  • Lợi dụng thuê nhà, thuê đất để kinh doanh rồi dùng giấy tờ sở hữu của chủ nhà, chủ đất làm giả sang tên cho mình hoặc làm sổ đỏ giả thế chấp vay tiền ngân hàng, chiếm đoạt.

Hai là, thủ đoạn của các đối tượng là cán bộ ngân hàng:

  • Giả mạo chữ ký của lãnh đạo ngân hàng, kế toán viên, thủ quỹ để làm thủ tục chuyển tiền cho chi nhánh ngân hàng khác trong hệ thống rồi rút lại tiền;
  • Lợi dụng sơ hở, thiếu cẩn trọng trong công việc của các đồng nghiệp để lồng các chứng từ chuyển tiền giả mạo vào công văn trình ký.

Thứ hai, lừa đảo trong lĩnh vực tài chính:

  • Sử dụng những giấy tờ giả các Tổ chức quốc tế, cơ quan Nhà nước… lừa đảo các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước về cho vay tín dụng;
  • Lập công ty “ma”, tổ hợp “ma” vay tiền, huy động vốn. Hiện nay xuất hiện rất nhiều những trang web lập nên nhằm mục đích lừa đảo dưới hình thức huy động tài chính đa cấp.

Thứ ba, lừa đảo trong lĩnh vực bất động sản, chứng khoán:

  • Nhận vay hộ vốn ngân hàng bằng sổ đỏ. Thực tế trong những năm qua ở một số vùng quê, các đối tượng phạm tội lợi dụng nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh của các hộ dân, đặt vấn đề vay hộ với điều kiện những người này phải đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ký các giấy ủy quyền thế chấp nhà cửa, để bảo lãnh cho chúng vay vốn. Sau khi rút được tiền của ngân hàng chúng không đưa lại tiền cho họ và cũng không trả lại sổ đỏ, chỉ sau khi hết hạn vay ngân hàng yêu cầu những người bảo lãnh phải thanh toán, họ mới biết là mình bị lừa;
  • Mang đất đã thế chấp vay vốn ngân hàng ra chia lô để bán;
  • Dùng thủ đoạn gian dối, mạo nhận quen biết với các cán bộ quan chức, người có chức vụ, quyền hạn, làm việc tại các cơ quan Nhà nước, các dự án lớn hứa hẹn và nhận tiền để “chạy”, lo thủ tục cấp phép cho dự án hoặc gây ảnh hướng với người khác rồi nhận tiền, nhưng sau đó không làm được việc như đã hứa hẹn, không hoàn trả được tiền mà chiếm đoạt hoặc bỏ trốn;
  • Các đối tượng lừa đảo lợi dụng sự thiếu hiểu biết về thông tin về dự án của các khách hàng, đưa ra thông tin sai lệch để khách hàng tin là có thật. Sau đó nhận tiền của khách hàng chiếm đoạt hoặc bỏ trốn;
  • Mạo danh nhà đầu tư thứ cấp của các công ty bất động sản lớn để kêu gọi đầu tư, rao bán nhà và lừa gạt khách hàng;
  • Làm giả giấy tờ, tài liệu, các quyết định giao đất của các cơ quan như: UBND thành phố, Sở Tài nguyên môi trường, Sở Kế hoạch đầu tư, Sở Quy hoạch kiến trúc lập dự án “ma” rồi tổ chức huy động vốn hoặc lừa bán căn hộ, nhà “trên giấy” chiếm đoạt tài sản;
  • Làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc làm giả bộ hồ sơ, hợp đồng góp vốn, mua căn hộ, nhà đất của một chủ đầu tư dự án có thật để thu tiền, chiếm đoạt rồi bỏ trốn.

Thứ tư, lừa đảo trong lĩnh vực xuất khẩu lao động:

  • Thông qua việc môi giới lao động, tổ chức đưa lao động đi nước ngoài;
  • Lợi dụng quy định của Luật Doanh nghiệp đăng ký thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn với chức năng xúc tiến việc làm tạo vỏ bọc để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
  • Móc nối, mua chuộc một số cán bộ có chức vụ, quyền hạn, núp bóng dưới danh nghĩa các cơ quan nhà nước, các trung tâm quốc tế có chức năng xuất khẩu lao động để lừa đảo;
  • Thành lập công ty “ma” sử dụng con dấu giả để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người dân có nhu cầu muốn đi lao động ở nước ngoài;
  • Quảng bá xuất khẩu lao động sai với sự thật, dùng hình thức đi du lịch trong thời gian ngắn hoặc sử dụng visa, thẻ thuyền viên giả để đưa người lao động ra nước ngoài để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của họ;
  • Tuyển lao động vào công ty hứa sẽ cho đi xuất khẩu lao động, nhưng thực chất chỉ là đi thăm quan, giới thiệu sản phẩm, tham gia dự triển lãm ở nước ngoài, sau đó bỏ mặc họ tự tìm việc ở nước ngoài để lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
  • Móc nối với một số phần tử xấu ở nước ngoài để xây dựng “kịch bản” đưa người xuất khẩu lao động ra nước ngoài chiếm đoạt tài sản.

Thứ năm, lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua tin nhắn rác và mạng xã hội facebook, zalo.

Lợi dụng các trang mạng xã hội, trang thông tin điện tử, mạng internet, mạng viễn thông đưa ra thông tin trúng thưởng để lừa đảo, như: gửi tin nhắn thông báo trúng thưởng đến các số điện thoại, gửi các đường link thông báo trúng thưởng đến các tài khoản trong trang mạng xã hội (facebook, zalo, skype, viber…), các website game. Nội dung tin nhắn thông báo trúng thưởng có hình thức phổ biến như: Thông báo bạn đã trúng thưởng giải nhất của chương trình sự kiện vàng tri ân khách hàng facebook gồm 01 xe máy SH, 01 Phiếu quà tặng trị giá 350.000.000 đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng), 01 phiếu sử dụng xăng miễn phí 01 năm của Petrolimex do Tập đoàn Messenger và Honda đồng tài trợ. Hoàn thiện hồ sơ truy cập vào web http://www.traogiaithang11.com) và liên lạc với số điện thoại.

Khi có người click vào đường link thông báo trúng thưởng này sẽ được hướng dẫn cách thức nhận thưởng gồm: Đăng nhập tài khoản của mình tại đây thì sẽ bị đối tượng chiếm quyền quản trị (hack) tài khoản, thông báo nộp tiền phí nhận thưởng bằng cách nạp thẻ cào điện thoại hoặc chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng để chiếm đoạt.

Thứ sáu, lừa đảo lừa đảo thông qua hình thức Vishing

Đây là thủ đoạn phạm tội mới, đối tượng thường sử dụng dịch vụ gọi điện qua Internet (VOIP – Voice over Internet Protocol) hoặc sử dụng sim rác để che giấu danh tính, giả danh những người có thẩm quyền, gọi đến nạn nhân thông báo nội dung liên quan đến tài chính của họ, từ đó đưa ra yêu cầu nạn nhân phải cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng hoặc chuyển tiền vào một tài khoản do đối tượng cố định.

Thực tế cho thấy, các đối tượng phần lớn là người nước ngoài thường là những ổ nhóm người Việt Nam, câu kết với một số đối tượng người Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, khi nhập cảnh vào Việt Nam thường chọn địa bàn là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh thành phố lớn thuê nhà, thuê đường truyền Internet tốc độ cao, bằng công cụ kỹ thuật chuyển cuộc gọi, các đối tượng thực hiện việc gọi điện đến các thuê bao cố định hoặc di động, giả danh cơ quan công an hoặc nhân viên tổng đài chăm sóc khách hàng. Sau khi lấy được lòng tin của người dân, các đối tượng tiếp tục giả danh là người đại diện của các cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an, Viện kiểm sát muốn kiểm tra xem số dư tài khoản ngân hàng của nạn nhân có phải phi pháp hay không và liên tục đe dọa, trấn áp tinh thần của nạn nhân và cuối cùng, chúng yêu cầu nạn nhân phải chuyển tiền vào tài khoản của các cơ quan bảo vệ pháp luật hoặc cơ quan tài chính nhà nước để giám định kiểm tra.

Thứ bảy, lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo mô hình kinh doanh đa cấp – đa cấp tiền ảo

Với thủ đoạn này, những nhà đầu tư bị dụ dỗ đầu tư vào những kế hoạch lừa đảo với những lời hứa sau khi đầu tư sẽ nhận được lợi nhuận rất cao. Tuy nhiên, thực chất không hề có sự đầu tư nào được gọi là công ty đầu tư, mà chính là những nhà đầu tư trước sẽ nhận được lợi nhuận từ tiền của những nhà đầu tư sau. Nhưng khi hệ thống này đổ bể, những nhà đầu tư không hề nhận được phần chia cho mình như lời hứa, và mất cả số vốn đầu tư ban đầu. Đây là thủ đoạn lừa đảo rất phổ biến trên mạng Internet tại Việt Nam trong thời gian gần đây: Có thể kể đến vụ Colony Invest, vụ công ty cổ phần đào tạo trực tuyến MB24 và công ty CPTM Cộng Đồng Việt lợi dụng việc bán gian hàng ảo trên mạng Internet lừa đảo chiếm đoạt số tiền lần lượt là 700 tỷ đồng và 400 tỷ đồng, hay gần đây nhất là vụ việc lừa đảo đa cấp tiền đảo Ifan và Pincoin với tổng số tiền mà các đối tượng chiếm đoạt lên tới 15.000 tỷ đồng. Thủ đoạn của hình thức lừa đảo trên đó là huy động vốn đa cấp, lấy tiền của người dưới thưởng cho người trên, không có phát sinh lãi, không kinh doanh.


Trên đây là Bình luận về ” BÌNH LUẬN ĐIỀU 174 BLHS TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN “.

Quý khách có nhu cầu Tư vấn Pháp Luật – Tư vấn pháp luật Hình Sự – Dân Sự – Hành Chính, xin quý khách vui lòng liên hệ:

LUẬT SƯ TƯ VẤN TRỰC TIẾP: 0989. 111. 863
Phụ trách nội dung:ThS. LS. TRẦN VĂN HUY – Luật sư điều hành HTM & PARTNER

Địa chỉ: Số 70, Ngõ 203, Đường Hoàng Quốc Việt, Phường Nghĩa Tân, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.

Website: https://luathtm.vn/

Email: Luathtm.vn@gmail.com

Fanpage: https://www.facebook.com/luathtm/

Zalo liên hệ Luật sư: 0989. 111. 863

Mã QR Zalo Luật sư: 


Bạn có thể tham khảo thêm tại đây: 

  1. https://luathtm.vn/
  2. https://tintuc.luathtm.vn/
  3. https://tintuc.luathtm.vn/binh-luan-ve-an-le-so-14-2017-al-hop-dong-tang-cho-quyen-su-dung-dat-1963.html
  4. https://tintuc.luathtm.vn/quyen-bao-chua-cua-bi-cao-1870.html
  5. https://tintuc.luathtm.vn/khang-cao-phuc-tham-cua-luat-tthc-1898.html
Leave A Reply

Your email address will not be published.

0989.111.863