BÌNH LUẬN TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 2

BÌNH LUẬN TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

17

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là việc người phạm tội lợi dụng sự tín nhiệm của bị hại để chiếm đoạt tài sản của họ. Hành vi này được pháp luật hình sự quy định là tội phạm, người thực hiện hành vi này phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ điều kiện khác về chủ thể, lỗi,…

Sau đây HTM & Partner xin được bình luận về tội danh này như sau:


Tội Lạm Dụng Tín Nhiệm Chiếm Đoạt Tài Sản
Tội Lạm Dụng Tín Nhiệm Chiếm Đoạt Tài Sản

1. CĂN CỨ PHÁP LÝ

  • Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015
  • Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017

2. NỘI DUNG BÌNH LUẬN

2.1 Khái niệm 

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian  dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định lần đầu tiên tại Điều 140 Bộ luật Hinh sự năm 1999, đây là tội được nhập từ tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 158, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 135 Bộ luật Hình sự năm 1985, nhưng chỉ đến khi Bộ luật Hình sự năm 2015 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành thì Tội này mới được quy định khá chặt chẽ và cụ thể.

Điều 175 Chương XVII Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

“Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.

4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

Theo quy định trên thì tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi: vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó, hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có khả năng nhưng cố tình không trả; hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt: tài sản phải có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên thì mới phạm vào tội này, nếu dưới bốn triệu đồng thì phải hội đủ các điều kiện khác của điều luật như đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và điều 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ thì mới phạm vào tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

2.2 Các dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Thứ nhất, dấu hiệu về mặt chủ thể của tội phạm:

Có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi từ 16 tuổi trở lên. Đây là một trong các điểm mới của Bộ luật hình sự 2015 so với Bộ  luật hình sự 1999, bộ luật mới đã có sự tách bạch rõ ràng hơn về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

Thứ hai, dấu hiệu về mặt khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Thứ ba, dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm:

Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng  bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Thứ tưdấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm:

Hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được cấu thành khi thuộc một trong các trường hợp sau:

(i) Giá trị của tài sản chiếm đoạt của người khác từ 4.000.000 đồng trở lên;

(ii) Giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội về xâm phạm sở hữu khác: tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội trộm cắp, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

(iii) Tài sản bị chiếm đoạt là phương tiện kiếm sống của chính người bị hại hoặc gia đình họ.

Những hành vi khách quan cần có những điểm đáng lưu ý sau:

(i) Người phạm tội có được tài sản một cách hợp pháp thông qua các hợp đồng vay, mượn thuê tài sản của người khác hoặc bằng hình thức khác. Sau khi có được tài sản người phạm tội mới dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; (ii) Nếu người phạm tội không dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn nhưng sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì cũng bị coi là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

2.3 HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI LÀM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Điều 175 Bộ luật Hình sự quy định 05 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

– Khung hình phạt phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với người thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

– Khung hình phạt phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp:

a) Có tổ chức;

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải trường hợp lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi giục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức.

Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm quy định tại Điều 17 Bộ luật Hình sự.

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản.

Người tổ chức trong vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như đối với người tổ chức trong các vụ án khác, họ cũng là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, người tổ chức trong vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chủ yếu là người vạch kế hoạch, chỉ huy việc thực hiện kế hoạch chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản.

Người xúi giục trong vụ án là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm.

Người giúp sức trong vụ án là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện hành vi phạm tội.

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội lấy việc phạm tội là nguồn sống chính cho mình và có từ 5 lần trở lên phạm tội.

Khái niệm chuyên nghiệp được hiểu ở đây không đồng nghĩa với khái niệm nghề nghiệp của một người, vì không thể coi phạm tội là một nghề kiếm sống, tính chất chuyên nghiệp của hành vi phạm tội thể hiện ở chỗ tội phạm đó được lặp đi lặp lại nhiều lần mà người phạm tội coi việc phạm tội đó là phương tiện kiếm sống.

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

Tài sản bị chiếm đoạt có thể là tiền. Trường hợp tài sản là vật, người phạm tội phải chịu tình tiết định khung tăng nặng này khi giá trị quy đổi của vật bị chiếm đoạt tương đương từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

Chủ thể thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác là người có chức vụ quyền hạn, lãnh đạo trong các cơ quan nhà nước, quản lý trong Bộ máy chính trị, hành chính Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội. Quyền hạn của chủ thể này có thể do pháp luật định hoặc do các cơ quan, tổ chức giao cho họ để thi hành nhiệm vụ.

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

Đây là trường hợp người phạm tội sử dụng phương pháp tinh vi, gian dối cao làm cho mọi người dễ lầm tưởng đó không phải nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản nhưng thực chất hành vi đó là việc lợi dụng sự tín nhiệm của chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản đó.

e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

Đây là trường hợp hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản diễn ra tại nơi công cộng, gây ảnh hưởng đến nhiều người, gây mất trật tự, an toàn xã hội.

g) Tái phạm nguy hiểm.

Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

Như vậy, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong trường hợp tái phạm nguy hiểm là trường trước đây họ đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do lỗi cố ý, chưa được xóa án tích mà đã lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc trước đây họ đã bị kết án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà nay lại tiếp tục lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác.

– Khung hình phạt phạt tù từ 05 năm đến 12 năm đối với người phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

– Khung hình phạt phạt tù từ 12 năm đến 20 năm đối với người phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên.

– Khung hình phạt bổ sung, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

2.4 Những thay đổi tiến bộ về tội lạm dụng tín nhiệm tài sản trong pháp luật hình sự nước ta (cụ thể tại Bộ luật Hình sự năm 2015)

So với Điều 140 Bộ luật hình sự 1999 thì Điều 175 Bộ luật hình sự 2015 đã có những thay đổi mang tính hoàn thiện hơn hành lang pháp lý đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. 

Thứ nhất, thay đổi về nội hàm của khái niệm “hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”

Theo Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định 03 loại hành vi là hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, đó là: Sau khi vay, mượn, thuê, tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng, chủ thể đã thực hiện một trong 03 hành vi sau:  Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đó; Bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; Sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Tuy nhiên, Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định thêm 01 loại hành vi là hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, đó là hành vi “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”, đồng thời bỏ hành vi “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” ra khỏi khái niệm “hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Đây chính là một bước hoàn thiện rõ rệt của Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999.

Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt và phải là chiếm đoạt được. Khác với hành vi chiếm đoạt ở các tội phạm khác, hành vi chiếm đoạt ở tội này là sự vi phạm nghĩa vụ trả lại tài sản bằng hành vi chiếm đoạt. Có thể hiểu: Chiếm đoạt là hành vi cố ý (trực tiếp) làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng thực tế thực hiện quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt đối với tài sản của mình và tạo ra cho người phạm tội khả năng thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trái pháp luật tài sản đó.

Dựa trên cơ sở đó, xem xét đến hành vi của người nhận được tài sản thông qua các hình thức hợp đồng ngay thẳng (vay, mượn, thuê… tài sản) sau đó khi đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả. Hành vi “cố tình không trả” là hành vi vi phạm nghĩa vụ trả lại tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi này làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền sở hữu của mình trên thực tế và tạo cho chủ thể (vay, mượn, thuê… tài sản) khả năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó như tài sản của mình; Như vậy, hành vi đó là hành vi chiếm đoạt và mang bản chất của hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy vậy, hành vi này chưa được quy định là một hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm tài sản chính là một bất cập của Bộ luật Hình sự năm 1999. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã hình sự hóa hành vi nói trên, không chỉ là một bước hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, mà qua đó còn tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh với các thực trạng đang rất “nóng bỏng” hiện nay như: “quỵt nợ”, “vỡ tín dụng”, “đòi nợ thuê”…

Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Như vậy cần lưu ý, việc chuyển giao tài sản từ người bị hại sang người phạm tội xuất phát từ một hợp đồng hợp pháp như vay, mượn, thuê tài sản.

Sau khi đã nhận được tài sản, người phạm tội mới dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đang do mình quản lý; về thủ đoạn gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như đối với thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Nếu người phạm tội không dùng thủ đoạn gian dối mà sau khi đã nhận tài sản một cách hợp pháp rồi bỏ trốn với ý thức không thanh toán, không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản ( ý thức chiếm đoạt tài sản ) thì cũng là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Khi đánh giá hành vi bỏ trốn của người phạm tội phải xem xét một cách khách quan, toàn diện, nếu người phạm tội bỏ trốn hoặc tránh mặt chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản vì nguyên nhân khác thì không coi là bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản.

Nếu người phạm tội không có hành vi gian dối, không bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản nhưng lại dùng tài sản đó (tài sản nhận từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản một cách hợp pháp) vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì cũng bị coi là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Hiểu như thế nào là dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp là một vấn đề không đơn giản, nếu theo khái niệm thông thường thì “bất hợp pháp” là không đúng với pháp luật không phân biệt đó là pháp luật gì và nếu hiểu bất hợp pháp theo nghĩa rộng như vậy thì hấu hết các trường hợp mất khả năng thanh toán nợ cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đều là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Tuy nhiên, xem xét đến hành vi “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản”, ta thấy Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã không quy định hành vi này là hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là đúng đắn, bởi lẽ: Trên thực tế, những người nhận được tài sản thông qua các hình thức hợp đồng ngay thẳng (vay, mượn, thuê… tài sản) sau đó “bỏ trốn” (trốn khỏi nơi cư trú, nơi làm việc) sẽ thuộc một trong hai trường hợp:

Một là, người (vay, mượn, thuê… tài sản) vì một lý do nào đó đã không còn khả năng trả lại tài sản

Trong trường hợp lý do đó là khách quan (như: Kinh doanh thua lỗ…), hành vi “không trả lại tài sản” của người đó không có lỗi cố ý trực tiếp nên không phải là hành vi chiếm đoạt, việc người đó bỏ trốn chỉ là “bất đắc dĩ” do “vỡ nợ” chứ không phải là một thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản. Còn trong trường hợp lý do dẫn đến việc người đó không có khả năng trả lại tài sản là do lỗi chủ quan: Người đó đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp (ví dụ: Đánh bạc, buôn lậu…), thì hành vi này là hành vi chiếm đoạt, vì hành vi sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp là sự định đoạt trái pháp luật của chủ thể đối với tài sản không phải của mình (người đó đương nhiên nhận thức rõ được tính trái pháp luật này và do đó, hành vi này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp) và làm cho chủ tài sản mất hẳn tài sản; nhưng trường hợp này đã được quy định là một hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Hai là, người (vay, mượn, thuê… tài sản) có khả năng trả lại tài sản nhưng bỏ trốn cùng với số tài sản nhận được

Trường hợp này trùng với trường hợp “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”, chính hành vi bỏ trốn cùng số tài sản nhận được đã thể hiện thái độ “cố tình không trả” của chủ thể.

Như vậy, việc Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã hình sự hóa “hành vi khi đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” thành một hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, đồng thời phi hình sự hóa “hành vi bỏ trốn” trong tội này, là một bước tiến rõ rệt trong việc hoàn thiện các quy định của luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 còn bỏ chữ “để” trong cụm từ “dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đó” tại khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999, thành “dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó”, đây cũng là một bước tiến của Bộ luật Hình sự năm 2015, nhằm tránh việc dấu hiệu chiếm đoạt trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bị nhầm lẫn thành “mục đích chiếm đoạt” thay vì là “hành vi chiếm đoạt được” như đúng bản chất pháp lý của tội này.

Thứ hai, thay đổi về các dấu hiệu định khung hình phạt

Điểm e khoản 2, điểm b khoản 3, điểm b khoản 4 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 sử dụng các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” làm tình tiết định khung hình phạt của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nhưng cũng như ở các tội khác, Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định các tình tiết này làm tình tiết định khung hình phạt, đây cũng chính là một điểm mới mang tính tiến bộ của Bộ luật Hình sự năm 2015, bởi lẽ:

Một là, đây là những “hậu quả gián tiếp” do hành vi phạm tội gây ra, mà việc định tội, định hình phạt đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải căn cứ vào hậu quả trực tiếp của hành vi nguy hiểm cho xã hội, chứ không phải là hậu quả gián tiếp (hậu quả mang tính chất suy diễn và nằm ngoài khả năng dự đoán của người phạm tội).

Hai là, những “hậu quả nghiêm trọng” hay “rất nghiêm trọng”, “đặc biệt nghiêm trọng” như trên mang tính không cụ thể, nếu quy định vào trong luật như Bộ luật Hình sự năm 1999, thì sẽ dẫn đến việc phải có văn bản hướng dẫn dưới luật thì mới thi hành được luật, mà luật hình sự thì phải cụ thể và rõ ràng, dễ hiểu để mọi người đều có thể hiểu và thi hành, tránh phát sinh nhiều văn bản hướng dẫn dưới luật. Như vậy, quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 cụ thể hơn và mang tính tiên liệu thực tiễn cao hơn Bộ luật Hình sự năm 1999.

Bên cạnh đó, điểm b khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định thêm tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” làm tình tiết định khung hình phạt, quy định này là hợp lý và cần thiết để răn đe, trừng trị đối với những người mà tính “bất tín” đã trở thành bản tính.

Thứ ba, thay đổi về các mức hình phạt

Các mức hình phạt quy định tại khoản 3, 4, 5 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 đều theo hướng có lợi hơn cho người phạm tội so với khoản 3, 4, 5 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Khoản 3 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định mức hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù, không có khoảng giao thoa với khoản 2. Còn khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt từ 05 năm đến 12 năm tù, có khoảng giao thoa với khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 và nhẹ hơn khoản 3 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Khoản 4 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định mức hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân. Khoản 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù, không áp dụng tù chung thân, có lợi hơn cho người phạm tội so với khoản 4 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999, nhưng lại không có khoảng giao thoa với khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015. Việc không có khoảng giao thoa này cần phải xem xét lại, vì rõ ràng hành vi “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị 499.999.000 đồng và có thêm tình tiết tăng nặng khác” nguy hiểm hơn hành vi “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị 500.000.000 đồng và không có thêm tình tiết tăng nặng” (thậm chí là có thể có thêm 01 tình tiết giảm nhẹ), nhưng mức hình phạt cho hành vi thứ nhất không thể quá 12 năm, còn mức hình phạt cho hành vi thứ hai thì lại không thể dưới 12 năm.

Khoản 5 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 về cơ bản là giống với khoản 5 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999, chỉ khác ở chỗ: Khoản 5 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định hình phạt “bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm” có thể được áp dụng đồng thời với hình phạt “bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, tức là người phạm tội có thể vừa bị mất tài sản lại vừa bị “mất nghề”, nhưng theo khoản 5 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, thì chỉ được áp dụng một trong hai hình phạt bổ sung này, như vậy là nhân đạo hơn với người phạm tội.

2.5 VỤ ÁN THỰC TẾ XÉT XỬ VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Bản án số 23/2021/HSST ngày 15 -6-2021 “V/v xét xử Dìm Văn D phạm tội làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” của Tòa án nhân dân thành phố Hà Giang tỉnh Hà Giang.

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 30/01/2021, Bồn Văn M gặp và đi hát karaoke cùng Dìm Văn D tại quán hát Karaoke Chang Kưm thuộc phường N, thành phố H, tỉnh Hà Giang. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, D hỏi mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda  Wave  Alpha biển kiểm soát 23K1-09559 của M để sử dụng đi công việc cá nhân, M đồng ý và giao xe cho D, M cho D biết giấy đăng ký xe (mang tên Bồn Văn M) để trong cốp xe. Sau đó, M tại phòng nghỉ của quán karaoke Chang Kưm đợi D. Dìm Văn D điều khiển chiếc xe mô tô của M chở một người bạn mới quen đi xuống bến xe khách Hà Giang. Sau đó quay lên hát với mấy người bạn tại quán karaoke Thủy Tiên.

Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, D nhớ đến việc phải chuộc lại chiếc xe mô tô khác D đã mượn của Đặng Văn Đ trước đó đang cầm cố tại xã M, huyện B, tỉnh Hà Giang  nên D nảy sinh ý định bán chiếc xe mô tô mượn của M để có tiền đi chuộc chiếc xe trong xã M để trả cho Đ. D ra ngoài cửa quán hát hỏi một nam thanh niên lái xe taxi “có quen ai mua xe máy không?” thì người này cho D số điện thoại của Nguyễn Trung H để tự liên hệ. Vì điện thoại của D hết tiền nên D hỏi mượn điện thoại của người lái xe taxi gọi cho H hỏi xem có mua xe mô tô không thì H trả lời đồng ý mua xe và hẹn gặp nhau ở gần khu vực Kính mắt Việt Đức (thuộc phường M, thành phố H). D một mình điều khiển chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 23K1-09559 đi đến số nhà 57 đường Bế Văn Đàn, phường M, thành phố H gặp H. D tự giới thiệu với H mình tên là Bồn Văn M, vì đang cần tiền nên muốn bán chiếc xe mô tô đang sử dụng với giá 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng), H nói: “nếu mười hai triệu thì mua“, D đồng ý. D viết giấy mua, bán xe, sau đó giao xe và đăng ký xe mang tên Bồn Văn M cho H, H nhận xe và đưa số tiền 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng) cho D.  Sau khi nhận tiền, D thuê xe taxi đi đến xã M, huyện B để chuộc lại chiếc xe đã cầm cố từ trước đó, nhưng vì không đủ tiền nên không chuộc được xe. D tiếp tục thuê xe quay trở lại thành phố H chơi. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Bồn Văn M không thấy D mang xe về trả cho mình nên đã gọi điện thoại cho D, D nói dối M chiếc xe đang bị Công an Vị Xuyên giữ, chưa lấy được, M tin tưởng nên đi xe khách trở về huyện B. Dìm Văn D sử dụng số tiền bán xe mô tô của M chi tiêu cá nhân hết.

Trong  khoảng thời gian  từ ngày  30/01/2021  đến  ngày  02/02/2021, M nhiều lần liên lạc với D hỏi về chiếc xe mô tô của mình, D tiếp tục nói dối rằng chiếc xe đang bị Công an Vị Xuyên giữ, để tạo lòng tin của M nên  vào  ngày 04/02/2021, D gọi điện thoại hẹn M mang theo chứng minh nhân dân đến thành phố H gặp D để cùng đi lấy xe. Đến khoảng 10 giờ ngày 05/02/2021, Bồn Văn M cùng Bàn Văn Đ, Bồn Văn Q đi ra gặp Dìm Văn D tại bến xe khách Hà Giang. Sau khi bốn người đi ăn cơm trưa, đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, D nói với M hiện thiếu tiền để đi lấy xe, D rủ M, Đ, Q xuống Bưu điện Cầu Trắng để nhận hồ sơ vay tín chấp ngân hàng. Đến nơi, D gọi điện thoại liên lạc với nhân viên tư vấn của ngân hàng cho vay tín chấp nhưng vì nhân viên tư vấn chưa thể hướng dẫn cho D nên hẹn D đến ngày hôm sau. Lúc này, D, M, Đ, Q quyết định cùng về xã Phương Tiến, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang nghỉ qua đêm. Đến khoảng 07 giờ ngày 06/02/2021, D tiếp tục rủ M, Đ, Q cùng đi đến Bưu điện Cầu Trắng để làm thủ tục lấy hồ sơ vay tín chấp. Khi đến nơi, D bảo M, Đ, Q đứng bên ngoài đợi, một mình D đi vào bên trong làm thủ tục, D gọi điện thoại cho nhân viên tư vấn vay tín chấp để hướng dẫn làm hồ sơ, sau đó nhân viên Bưu điện gặp D nói phải trả tiền bộ hồ sơ là 1.800.000đ cho nhân viên Bưu điện thì mới hướng dẫn, giao hồ sơ. Do không đủ tiền nên D đi ra hỏi vay tiền M, nhưng M cũng không có tiền nên D hỏi vay Bàn Văn Đ, Đ đưa số tiền 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng) cho D. Sau đó D tiếp tục đi một mình vào trong Bưu điện, nhưng nhân viên Bưu điện tư vấn việc làm hồ sơ vay tín chấp như vậy có khả năng bị lừa đảo và nên cân nhắc, D cũng nghi ngờ nên đã quyết định không tiếp tục làm hồ sơ vay tín chấp nữa. D cầm theo số tiền 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng) của Bàn Văn Đ đi ra cổng, quan sát và không để M, Qvà Đ nhìn thấy, sau đó D lên xe khách đi về tỉnh Tuyên Quang chơi và không liên lạc lại với M nữa. Đối với M, Đ, Q do không thấy D đi ra nên đã đi tìm và gọi điện thoại liên lạc với D nhưng không được.

Ngày 18/02/2021, Bồn Văn M đến Công an huyện B, tỉnh Hà Giang tố giác Dìm Văn D về hành vi chiếm đoạt chiếc xe mô tô nêu trên của M. Công an huyện B đã chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐGTS, ngày 12/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Ủy ban Nhân dân thành phố H, tỉnh Hà Giang kết luận:

Chiếc xe mô tô của M bị chiếm đoạt hiệu Honda Wave Alpha, màu sơn đen – bạc, số khung RLHJA3920MY014074, số máy JA39E-2130069, mang biển kiểm soát 23K1-09559 đã qua sử dụng có  giá trị là 17.000.000 đồng (mười bảy triệu đồng).

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đến tài sản của người khác đều là vi phạm pháp luật và bị xử lý nghiêm minh nhưng vì lợi ích của bản thân, để đáp ứng nhu cầu tiêu xài cá nhân nên bị cáo đã bất chấp pháp luật. Bị cáo đã lợi dụng sự tin tưởng của bị hại Bồn Văn M khi giao xe cho bị cáo mượn để đi công việc cá nhân và đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Bị cáo đã chiếm đoạt tài sản của Bồn Văn M là chiếc xe mô tô trị giá 17.000.000 đồng (mười bảy triệu đồng). Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo còn trẻ tuổi nhưng không chịu lao động chân chính kiếm tiền phục vụ bản thân, đã từng bị đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi trộm cắp tài sản để giáo dục bị cáo nhưng đến ngày 21/01/2021 bị cáo đã thực hiện hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và bị Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 12 tháng tù; Ngày 30/01/2021 lại cố tình thực hiện hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của bị hại Bồn Văn M, điều này thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc, cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ dài mới có tác dụng giáo dục, cải tạo, răn đe bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Vì lẽ đó, Tòa án nhân dân thành phố Hà Giang tỉnh Hà Giang tuyên bố bị cáo Dìm Văn D phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Hình phạt: Xử phạt bị cáo Dìm Văn D 13 (Mười ba) tháng tù. Tổng hợp hình  phạt  12 (Mười  hai) tháng  tù  tại Quyết  định  thi  hành  án  phạt  tù  số 11/2021/QĐ-CA, ngày 07 tháng 6 năm 2021 của Chánh án Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Giang, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 25 (Hai mươi lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/02/2021.


Trên đây là Bình luận về ” BÌNH LUẬN TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN “.

Quý khách có nhu cầu Tư vấn Pháp Luật – Tư vấn pháp luật Hình Sự – Dân Sự – Hành Chính, xin quý khách vui lòng liên hệ:

LUẬT SƯ TƯ VẤN TRỰC TIẾP: 0989. 111. 863
Phụ trách nội dung:ThS. LS. TRẦN VĂN HUY – Luật sư điều hành HTM & PARTNER

Địa chỉ: Số 70, Ngõ 203, Đường Hoàng Quốc Việt, Phường Nghĩa Tân, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.

Website: https://luathtm.vn/

Email: Luathtm.vn@gmail.com

Fanpage: https://www.facebook.com/luathtm/

Zalo liên hệ Luật sư: 0989. 111. 863

Mã QR Zalo Luật sư: 


Bạn có thể tham khảo thêm tại đây: 

  1. https://luathtm.vn/
  2. https://tintuc.luathtm.vn/
  3. https://tintuc.luathtm.vn/binh-luan-ve-an-le-so-14-2017-al-hop-dong-tang-cho-quyen-su-dung-dat-1963.html
  4. https://tintuc.luathtm.vn/quyen-bao-chua-cua-bi-cao-1870.html
  5. https://tintuc.luathtm.vn/binh-luan-lua-dao-chiem-doat-tai-san-2001.html
Leave A Reply

Your email address will not be published.

0989.111.863