ÁP DỤNG LẼ CÔNG BẰNG TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ
ÁP DỤNG LẼ CÔNG BẰNG TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ
Pháp luật sinh ra nhằm điều chỉnh các quan mối hệ xã hội. Pháp luật nằm ở kiến trúc thượng tầng của xã hội, là toàn bộ những quan điểm: chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, tôn giáo, nghệ thuật… với những thể chế tương ứng: nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể… được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Những tranh chấp trong các mối quan hệ trong xã hội là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt là tranh chấp các vấn đề trong lĩnh vực Dân sự, vì vậy để giải quyết những tranh chấp này cần phải có pháp luật để là một cấu trúc, là một khung hình thái, dựa trên đó ta sẽ giải quyết các mối tranh chấp.
Nhưng không phải lúc nào các quy phạm pháp luật, quy định của pháp luật cũng được ban hành kịp thời để có thể điều chỉnh được hết các mối quan hệ trong xã hội. Vì vậy, lẽ công bằng là một trong những giải pháp để giải quyết tranh chấp sinh ra từ các mối quan hệ trong xã hội khi pháp luật chưa có các quy định để điều chỉnh.
Áp dụng lẽ công bằng là một việc phức tạp, nhằm giải quyết kịp thời những tranh chấp phát sinh theo nguyên tắc không thể viện cớ chưa có quy định của pháp luật thì không giải quyết. Vậy thì áp dụng lẽ công bằng trong các vụ việc dân sự như thế nào ?
Sau đây, xin mời các bạn cùng tìm hiểu ở bài viết dưới đây của HTM & Partner về vấn đề ÁP DỤNG LẼ CÔNG BẰNG TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ.
1.CĂN CỨ PHÁP LÝ
- Bộ luật Dân sự năm 2015
- Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
2. NỘI DUNG
1. Quy định về áp dụng lẽ công bằng
“1. Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.2. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng”.
2. Định nghĩa áp dụng lẽ công bằng
“Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản”.
“Mọi người đều bình đẳng trước các tòa án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự”.
“Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”.
“Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng”.
“Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật theo quy định tại Điều 5 và khoản 1 Điều 6 của Bộ luật dân sự, khoản 1 và khoản 2 Điều này… Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó”.
3. Điều kiện áp dụng lẽ công bằng
4. Thẩm quyền áp dụng lẽ công bằng
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng lẽ công bằng
6. Hệ quả pháp lý của việc áp dụng lẽ công bằng
7. Ví dụ cụ thể áp dụng lẽ công bằng trong xét xử.
BẢN ÁN SỐ 04-2020/DS-ST ngày 28/05/2023 của Tòa án Nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ về “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.
1.Đương sự tham gia tố tụng
Nguyên đơn: Anh Đinh Hồng V, sinh năm 1986
Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1990
2. Nội dung vụ án
Nguyên đơn trình bày:
Anh V và chị H kết hôn năm 2009. Quá trình kết hôn, vợ chồng có 2 con chung là Đinh Thị Hồng G sinh năm 2010 và Đinh Tùng L sinh năm 2015. Sau khi kết hôn anh V làm nghề buôn bán lâm sản và lái xe. Chị H ở nhà nuôi con không nghề nghiệp cho đến khi ly hôn.
Do chi H không chung thủy nên cháu L không phải là con anh V . Đã giám định ADN.
Anh V đề nghị chi H phải thanh toán cho anh số tiền nuôi dưỡng đối với cháu Đinh Tùng L với số tiền là 121.000.000 đồng. Cụ thể::
– Tiền ăn: 40.000d/ ngày (1.200.000d/ tháng);
– Tiền sữa: 10.00d/ ngày ( 300.000d/ tháng);
– Tiền bỉm: 450.000d/ tháng ( trong hai năm);
– Tiền quần áo: 3.000.000d/ năm ( 250.000d/ tháng);
– Tiền thuốc men khi ốm đau: 2.000.000d/ năm (166.000d/tháng);
– Tiền chi phí mổ đẻ cho chị H: 15.000.000d
– Tiền học nhà trẻ từ 3 tuổi: 7.000.000d/ năm ( 600.000d/tháng);
Tại phiên tòa anh đề nghị bồi thường tiền công chăm sóc 2.000.000d/ tháng.
Bị đơn trình bày
Trong thời gian hôn nhân với anh Đinh Hồng V, chị có đi buôn bán và có quan hệ ngoài luồng có thai với người khác. Anh V đông ý chấp nhận việc chị H có thai và nuôi cháu Đinh Tùng L để làm phước. Chị H không đồng ý bồi thường vì tỏng thời kỳ hôn nhân anh V cũng có quan hệ ngoài luồng và anh V đã chấp nhận sự kiện trên.
Về thu nhập nuôi con chị H trình bày: Trong thời gian chung sống từ tháng 10/2009-/tháng 11/2011, tôi ở nhà chăm con. Tháng 12/2011- tháng 7/2015 tôi và anh V buôn bán quế cùng nhau, trung bình thu nhập của cả hai chúng tôi là 20.000.000d/tháng. Đến 08/2015- tháng 5/2016 tôi nghỉ ở nhà sinh con, chăm con, lo trông thợ xây nhà, không có thu nhập. Tháng 06/2016- tháng 02/2020- tôi kinh doanh quần áo sau đó chuyển sang kinh doanh quán bia, thu nhập bình quân 6.500.000d/tháng. Còn anh C làm nghề lái xe, có thu nhập.
Trong thời gian đi làm có thu nhập anh V không cung cấp tiền trang trải cuộc sống mà chỉ có tiền trả lãi, tiền điện. Thời gian nghỉ ở nhà không có thu nhâp, anh V cho trung bình 3.000.000d/ tháng để chi tiêu
Khi sinh cháu L phải sinh mổ chi phí hết 10.000.000d, anh V đã chi trả cho bênh viện. Chi phí nuôi cháu L hàng tháng: tiền ăn, sữa, bỉm 1.000.000d/ tháng (ở nhà và trường). Tiền học ở trường 2.200.000d/năm, tiền quần áo 2.000.000d”
Tôi không đồng ý với yêu cầu bồi thừog 2.100.000d, vì khi tôi có bầu anh V đã nói nuôi làm phúc và đi đăng ký khai sinh, nuôi dạy. Hơn nữa tôi cũng là người chăm sóc, nuôi dưỡng con, không riêng mình anh V. Tôi không đồng ý thanh toán bất kỳ khoản tiền nào cho anh V.
Tại phiên tòa chị H chấp nhận bồi thường chi phí nuôi cháu L là 50.000.000d. Xác nhận chi phí khi sinh là 12.000.000d
* Đại diện viện kiểm sát nhân dân đề nghị:
– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đinh Hồng V
– Buộc chị H phải bồi thường 70-76 triệu đồng chi phí nuôi dưỡng và tổn thất tinh thần
3. Nhận định của Tòa án
Hội đồng xét xử nhận định:
1.Về thủ tục tố tụng:
– Theo khỏan 2 Điều 4 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
“ Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”.
Quy định này được cụ thể hóa từ Điều 26 đến Điều 33 BLTTDS Tòa án có thẩm quyền chấp đó thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
– Do yêu cầu của nguyên đơn không có cơ quan nào giải quyết, do vậy Tòa án nhân dân huyện Thanh Ba căn cứ nơi cứ trú của bị đơn theo Điều 43 BLTTDS và các nguyên tắc chung theo khoản 2;3 Điều 45 BLTTDS để giải quyết vụ án.
2. Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án và áp dụng pháp luật:
– Về yêu cầu bồi thương chi phí nuôi dưỡng và bồi thường về tinh thần. Mặc dù hiện nay chưa có Án lệ về vụ việc tương tự, pháp luật không quy định đầy đủ trong trường hợp này, nhưng xét thấy:
+ Nguyễn Thị Thanh H và anh Đinh Hồng V là vợ chồng ( đã li hôn ngày 06/2/2020), quá trình chung sống chị Nguyễn Thị Thanh H đã vi phạm khoản 1 Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình:
“ Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.
Từ việc vi phạm nghĩa vụ trên dẫn đến vụ việc Tòa án giải quyết hiện nay.
+ Trong bản tự khai chị H cho rằng khi chị mang thai anh Đinh Hồng V biết cháu L không phải là con của anh nhưng anh vẫn chấp nhận nuôi để làm phúc. Nhưng chị không đưa ra được chứng cứ nào. Do vậy, việc anh Đinh Hồng V yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần vì anh bị tổn thương về danh dự, nhân phận, uy tín do hành vi của chị Nguyễn Thị Thanh H gây ra là có căn cứ.
+ Về căn cứ bồi thường ngoài căn cứ theo khoản 1 Điều 584 BLDS Tòa án còn áp dụng quy định chung theo Điều 3 BLDS và Lẽ công bằng theo quy định của BLDS để buộc bồi thường, Điều 6 Bộ luật Dân sự quy định:
“1. Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.
-Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khỏa 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng.”
Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức mọi việc làm đều có mục đích. Anh Đinh Hồng V nuôi dưỡng chăm sóc cháu Đinh Tùng L là được hưởng lợi về mặt tình cảm và trông cậy lúc tuổi già. Nhưng mục đích ấy không đạt được. Vì vậy, người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường là phù hợp với quy định của pháp luật vì lẽ công bằng.
Về bồi thường trong quá trình nuôi dưỡng cháu L. Các bên có lời khai khác nhau nhưng theo Luật HN&GD việc nội trợ gia đình được coi là lao động có thu nhập do đó thu nhập của anh Đinh Hồng V và trách nhiệm nuôi cháu L được tính cho cả chị Nguyễn Thị Thanh H. DO vậy mức chi phí nuôi dưỡng được tính bằng ½ tổng chi phí.
Về chi phí sinh anh V khai 15 triệu, chị H khai 12 triệu và do anh V chi trả. Buộc phải thanh toán cho anh Đinh Hồng V bằng ½
Về tiền công chăm sóc: Thực tế chị Nguyễn Thị Thanh Hương dành nhiều thời gian chăm sóc cháu Đinh Tùng Lâm hơn, do vậy cần buộc chị Nguyễn Thị Thanh H thanh toán 1 phần cho anh V.
Về án phí: Bị đơn chịu án phí
Quyết định của Tòa án
– Chấp nhânh yêu cầu khởi kiện của Đinh Hồng V
Buộc chị H phải thanh toán tiền cho anh V các khoản sau:
1/ Tiền chi phí nuôi dưỡng cháu L với thời gian 51 tháng x 1.050.000d/ tháng = 53.550.000d/ tháng ( không bao gồm tiền công chăm sóc)
2/ Tiền tổn thất tinh thần cho anh Đinh Hồng V bằng 08 tháng lương cơ bản x 1.490.000d = 11.920.000 đồng
3/ Tiền chi phí sinh là 6.000.000 đồng
4/ Tiền công chăm sóc 500.000d/ tháng x với thời gian 51 = 25.500.000 đồng
Tổng cộng 1+2+3+4 = 96.970.000 đồng;
Trên đây là phần tư vấn của HTM & Patner về ÁP DỤNG LẼ CÔNG BẰNG TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ.
Quý khách có nhu cầu Tư vấn pháp luật – Dân sự – Hình sự – Hành chính, xin quý khách vui lòng liên hệ:
LUẬT SƯ TƯ VẤN TRỰC TIẾP: 0989. 111. 863
Phụ trách nội dung:ThS. LS. TRẦN VĂN HUY – Luật sư điều hành HTM & PARTNER
Địa chỉ: Số 70, Ngõ 203, Đường Hoàng Quốc Việt, Phường Nghĩa Tân, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
Website: https://luathtm.vn/
Email: Luathtm.vn@gmail.com
Fanpage: https://www.facebook.com/luathtm/
Zalo liên hệ Luật sư: 0989. 111. 863
Mã QR Zalo Luật sư:
Bạn có thể tham khảo thêm các bài viết tại đây:
- https://tintuc.luathtm.vn/ap-dung-lai-suat-doi-voi-mot-so-loai-hop-dong-2288.html
- https://tintuc.luathtm.vn/cap-gay-chung-nhan-phong-chay-chua-chay-1943.html
- https://tintuc.luathtm.vn/phat-vi-pham-hanh-vi-lan-chiem-dat-1989.html
- https://tintuc.luathtm.vn/quyen-bao-chua-cua-bi-cao-1870.html